Cây tô mộc giúp điều hòa kinh nguyệt bế kinh đau bụng kinh
Còn có tên là cây gỗ vang, cây vang nhuộm, cây tô phượng (do cây này mọc ở nước Tô Phượng, một nước cổ ở vùng hải đảo Trung Quốc).
Tên khoa học Caesalpinia sappan L. Thuộc họ Vang Caesalpiniaceae.
To moc (Lignum Caesalpiniae sappan) là gõ phơi khô của cây gỗ vang hay cây tô mộc. Vì vị thuốc sản xuất ở Tô Phượng cho nên có tên (Tổ là Tô Phượng, mộc là gỗ).
Mô tả cây tô mộc
Cây tô mộc là một cây cao 7 – 10m, thân có gai. Lá kép lông chim, gồm 12 đội, hay hơn 12 đối lá chét, hơi hẹp ở phía dưới tròn ở đầu, mặt trên nhắn, mặt dưới có lông. Hoa 5 cánh màu vàng mọc thành chùm, nhị hơi lòi ra, nửa dưới chỉ nhị hơi có lông, bầu hoa phủ lông xám. Quả là một giáp dẹt hình trứng ngược dày, dai, cứng, dài từ 7 – 10cm, rộng từ 3,5 – 4cm, trong có 3 – 4 hạt màu nâu.
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi trong nước ta vì gỗ được dùng làm thuốc nhuộm gỗ và làm thuốc với tên tô mộc. Người ta dùng gỗ chẻ mỏng phơi khô.
Tác dụng dược lý cây tô mộc
- Phòng đông y thực ngiệm Viện vi trùng Việt Nam (1961) đã ngiên cứu thấy nước sắc tố mộc có tác dụng kháng sinh mạnh đối với vị trùng Staphylococcus 209P (vòng vô khuẩn (1,2cm), Salmonella typhi (0,4cm), Shiga flexneri (0,7cm), Shigella sonnei (0.2), Shigella dysenteria Shiga (Icm), Bacillus subtilis (1cm).
Tác dụng kháng sinh này không bị nhiệt, dịch vị và dịch tuy tạng phá hủy.
- Theo M.Gabor (1951) brasilein có tác dụng kháng histamin. Nếu tiêm brasilein vào màng bụng chuột bạch trước thì có thể đề phòng hiện tượng thay đổi ở mắt chuột bạch đo tiêm dụng dịch 1,5% histamin clohidrat.
- Theo M. Gabor, B. Horvath, L. Kiss và Z. Dirner (1952), brasilin và brasilein đều có tác dụng làm mạnh và kéo dài tác dụng của hocmon thượng thận đối với mẫu ruột cô lập của chuột bạch hoặc tử cung có lập của thỏ và đối với huyết áp của thỏ.
- Năm 1952 M. Gabor, I. Szodady và Z. Dirner còn báo cáo thí nghiệm trên sinh thiết (couê microscopique) tổ chức thận và nước của tổ chức thận thấy brasilin và brasilein có tác dụng ức chế men histidin decacboxylaza.
- Tù Tá Hạ và Diêm Ứng Bổng (1954-1955, 1956, Trung Hoa y học tạp chí, nghiên cứu toàn diện áp dụng được lý của tổ mộc đã đi đến kết luận sau:
Báo cáo thứ nhất
– Với lượng vừa thích hợp, tô mộc có tác dụng làm tăng sự co bóp của tỉm ếch cô lập. Áp lực tím lúc đầu càng yêu, tác dụng càng rõ.
– Nước tô mực làm cho sự co mạch của huyết quản ếch tăng lên (phương pháp Treudenberg). Nếu bắt đầu dùng nước tô mộc trước rồi mới dùng muối nitrit, thì tác dụng dãn mạch của muối nitrit sẽ không xuất hiện nữa.
Nước tô mộc không có ảnh hưởng đối với hô hấp và huyết áp của chó bị gây mê. Nếu phối hợp với histamin hoặc hocmon thượng thận cũng không thấy tác dụng hiệp đồng.
– Đối với mẫu ruột thỏ cô lập, nước tô mộc không có tác dụng, nhưng có thể tăng mạnh tác dụng của hocmon thượng thận đối với mẫu ruột.
– Nước tô mộc hại có tác dụng ức chế đối với | tử cung có lập của chuột nhắt. Nếu phối hợp tá mộc với hocmon thượng thận, tác dụng ức chế càng rõ.
Nước tô mực và hematoxylin không giống nhau. Tựa hồ như không có tác dụng kháng histamin.
Báo cáo thứ hai
Bối dầu thông trên bụng thỏ. Nước tô mộc không có tác dụng giảm nhẹ tính chất kích thích của dầu thông.
– Thí nghiệm trên phế quản của chuột bạch, nước tô mộc không có tác dụng làm giảm mất tác dụng của histamin đã gây co bóp trên phố quản.
– Tiệm nước tô mộc vào tĩnh mạch của con chó đã gây mê, dung tích của thân không bị ảnh hưởng.
– Sau khi tiêm 0,1ml vắc-xin thương hàn vào tĩnh mạch con thỏ để gây sốt, sau đó tiêm vào màng bụng 5ml dung dịch 20% tô mộc, nhiệt độ không giảm.
– Tiêm vào bụng chuột nhắt 1ml dung dịch khoảng 100% tô mộc, không làm mất tác dụng cong đuôi do tiêm mocphin vào chuột 1mg/10g chuột. Đối với thỏ hầu như có tác dụng đối kháng với tác dụng trấn tĩnh do tiêm dung dịch mocphin vào dưới da (5mg/kg thể trọng).
– 0,2ml dung dịch 20% tô mặc có thể khôi phục sự hoạt động của tim ếch có lập phương pháp Straub) đã bị đình lại do tiêm nước sắc 20% vị thuốc chi rác.
Báo cáo thứ ba
– Dùng nước tố mặc cho thỏ, chuột bạch, chuột nhắt uống hoặc tiêm tĩnh mạch hay dưới da hoặc thụt đều gây ngủ, lượng lớn có thể gây mê và có thể chết.
– Nước tô mặc có tác dụng đối kháng đối với tác dụng hưng phấn trung khu thần kinh do stricnin hoặc cocain gây ra.
– Nước tô mộc có khả năng khôi phục sự hoạt động của tỉm ếch cô lập phương pháp Straub) đã bị cloralhydrat hoặc quinin clohydrat, pilocacpin, eserin salixylat làm cho chưa hoàn toàn đình chi.
– Tiêm nước sắc tố mọc dưới da hoặc vào bụng con chó có thể gây nôn mửa và đi tả.
Công dụng và liều dùng
Tính vị theo đông y: Vị ngọt, bình, không độc, vào 3 kinh tâm, can và tì. Có tác dụng hành huyết, thống lạc, khứ ứ, chỉ thống, tán phong hòa huyết, chứa đẻ xong ứ trệ, kinh nguyệt, ung thũng, bị đánh tổn thương. Không ứ trệ câm dùng.
Nhân dân dùng tô mộc làm thuốc săn da và cảm mếu dùng trong các trường hợp tử cung chảy máu, đẻ mà mất máu qua nhiều, choáng váng, hoa mắt.
Còn dùng chữa lỵ ra máu, chảy máu trong ruột, xích bạch đới.
Một số vùng nhân dân dùng tỏ mộc nấu với nước uống thay chè.
Phụ nữ có thai không dùng được. Ngày uống 6 – 12g, dưới dạng thuốc sắc.
Nước sắc gỗ vang còn dùng để nhuộm đồ gỗ trước khi đánh vecni.
Đơn thuốc có tô mộc
- Bài thuốc hỗ trợ chữa kinh nguyệt không đều hoặc đẻ xong đau bụng từng cơn:
Tô mộc 10g, huyển hổ sách 6g, sơn tra 10g, hồng hoa 3g, ngũ linh chi 8g, đương quy thân 10g, nước 600ml, sắc còn 200ml, Chia 3 lần uống trong ngày.
- Đẻ xong ra huyết nhiều: Tô mộc 12g, sắc với 200ml nước còn 100ml. Chia 2 lần uống trong ngày.
Nguồn: giáo sư tiến sĩ: Đỗ Tất Lợi
Xem thêm: cây ích mẫu vị thuốc của chị em
*Lưu ý: Hiệu quả của sản phẩm còn tùy thuộc vào cơ địa mỗi người*
Thông tin liên hệ:
CÔNG TY TNHH SX & TM DƯỢC LIỆU HÒA BÌNH
Địa chỉ: Thôn Om Làng – xã Cao Dương – huyện Lương Sơn – tỉnh Hòa Bình
Hotline: 0976 836 586
Email: congtyduoclieuhoabinh@gmail.com
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.