Site icon Dược Liệu Hòa Bình

Cây mỏ quạ tác dụng khứ phong, hoạt huyết phá ứ

Cây mỏ quạ tác dụng khứ phong, hoạt huyết phá ứ

Còn gọi là hoàng lô, vàng lồ, xuyên phá thạch.

Tên khoa học Cadrania trickspidata (Carr.) Bur

Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

Mô tả cây mỏ quạ

Cây nhỏ thân mềm yếu nhiều cành, tạo thành bụi, có khi mọc thành cây nhỡ, chịu khô hạn rất khoẻ, có nhựa mủ trắng, rễ hình trụ có nhiều nhánh, mọc ngang, rất dài, nếu gặp đá có thể xuyên qua được (do đó có tên Xuyên phá thạch có nghĩa là phá chui qua đá). Vỏ thân màu tro nâu, trên có nhiều bì khổng màu trắng, thân và cành có rất nhiều gai, gai già hơi cong xuống trông như mỏ con quạ (do đó có tên cây mỏ qua).

Lá mọc cách, hình trứng thuôn, hai đầu nhọn, mặt lá nhẵn, bóng, mép nguyên, Nhâm có vị tê tê ở lưỡi (đặc điểm). Cụm hoa hình cầu, đường kính 7-10mm, màu vàng nhạt, mọc thành đôi hay mọc đơn độc ở kẽ lá. Hoa đơn tính, đặc cái khác gốc. Mùa hoa tại Hà Nội là tháng 4, Quả màu hồng hợp thành quả kép. Mùa quả tháng 10-11.

Phân bố, thu hái và chế biến cây mỏ quạ

Cây mỏ quạ mọc hoang và được trồng làm hàng rào ở những đồi hoang hay đất vườn. Cắt lấy những đoạn thân bánh tẻ đường kính 1-2cm, dài 15-25cm, cắm nghiêng, thường xuyên tưới nước cho tới khi bén rể thì thôi. Thường dùng lá tươi, có khi hái cả cành về nhà mới bứt lá riêng. Còn dùng rể, đào về rửa sạch đất, cắt thành từng mẩu 30-50cm, phơi hay sấy khô. Vỏ ngoài màu vàng đất, vết cắt màu vàng nhạt, vị hơi tê tê.

Thành phần hoá học cây mỏ quạ

Mới biết có hợp chất flavonoit

Sản phẩm thân Cây Mỏ Quạ đã phơi khô

Công dụng và liều dùng cây mỏ quạ

Lá mỏ quạ tươi gần đây được dùng hỗ trợ chữa vết thương phần mềm theo kinh nghiệm của cụ lang Long (Hải Dương) như sau: Chủ yếu dùng lá mỏ quạ tươi, rổi tùy theo vết thương, thêm một hai vị khác. Lá mỏ quạ tươi lấy về rửa sạch, bỏ cọng, giã nhỏ đắp vào vết thương. Nếu vết thương xuyên thủng thì phải đắp cả hai bên, bằng lại. Mỗi ngày rửa và thay bằng một lần. Thuốc rửa vết thường dùng là trầu không nấu với nước (40g lá trầu, 2 lít nước, nấu sôi để nguội thêm vào đó 8g phèn phi, hoà tan, lọc và dùng rửa vết thương).

Sau 3-5 ngày đã đỡ, khi đó hai ngày mới cần rửa và thay bằng một lần. Trường hợp vết thương tiến triển tốt nhưng lâu đây thật thì thay thuốc sau: lá mỏ quạ tươi và lá thòng bong (xem vị này) hai vị bằng nhau giã lẫn cả hai thứ đắp lên vết thương, mỗi ngày rửa và thay bằng một lần. 34 ngày sau lại thay thuốc sau: lá mỏ quạ tươi, là thòng bong, lá hàn the (Desmodium heterophyllum DC.) ba thứ bằng nhau, cứ 3 ngày mới thay bằng một lần để vết thương chóng lên da non.

Sau 2-3 lần thay bằng bằng 3 vị trên thì rắc lên vết thương thuốc bột chế bằng phấn cây cau (sao khô) 20g, phấn cây chè (sao khô) 16g, Ô long vị (bồ hóng) 8g, phèn phi 4g. Các vị tán mịn, trộn đều rác lên vết thương rồi để yên cho vết thương đóng vảy và róc thì thôi (Tạp chí đóng Ly và Sức khoẻ , 4/1966, 5/1966). Rễ được dùng trong nhân dân ta và nhân dân Trung Quốc (Quảng Tây) làm thuốc khứ phong, hoạt huyết phá ứ, hỗ trợ chữa ứ tích lâu năm, bị đánh bị thương, phụ nữ kinh bế. Ngày dùng 10 đến 30g rễ dưới dạng thuốc sắc. Theo kinh nghiệm nhân dân, phụ nữ có thai không dùng được.

Chú ý nghiên cứu.

Xem thêm: Cây tơ mành (dây chỉ) hỗ trợ chữa bệnh ngoài da

Nguồn: giáo sư tiến sĩ: Đỗ Tất Lợi

*Lưu ý: Hiệu quả của sản phẩm còn tùy thuộc vào cơ địa mỗi người*

Thông tin liên hệ:

CÔNG TY TNHH SX & TM DƯỢC LIỆU HÒA BÌNH

Địa chỉ: Thôn Om Làng – xã Cao Dương – huyện Lương Sơn – tỉnh Hòa Bình

Hotline: 0976 836 586

Email: congtyduoclieuhoabinh@gmail.com

Exit mobile version